Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 27(1):79-86. DOI 10.32895/hcjm.m.2024.01.12
Lượt xem: 109 Lượt tải PDF: 23
Nguyễn Lý Bích Trâm1, Ngô Tích Linh2, Hồ Nguyễn Yến Phi2, Trần Anh Ngọc2, Ái Ngọc Phân2, Phạm Thị Minh Châu2, Nguyễn Thi Phú2, Trương Quốc Thọ2, Nguyễn Thị Kiều Tiên1, Trần Trung Nghĩa2, Bùi Xuân Mạnh2
Đặt vấn đề: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm chức năng xã hội ở trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, hiện nay dữ liệu về đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm chủ yếu (RLTCCY) ở lứa tuổi này tại các cơ sở y tế còn tương đối hạn chế.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm chủ yếu ở trẻ vị thành niên và các yếu tố liên quan đến mức độ trầm cảm.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại khoa Tâm lý – Tâm thần trẻ em, bệnh viện Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 03/2022 đến tháng 05/2022 trên 43 bệnh nhân độ tuổi từ 10 tuổi đến 16 tuổi đến khám lần đầu được chẩn đoán RLTCCY theo tiêu chuẩn DSM-5. Nghiên cứu tính tỷ lệ RLTCCY và mối liên quan giữa RLTCCY với các đặc điểm về dân số xã hội học, như tuổi, giới tính, nơi sống, trình độ học vấn và học lực.
Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm ở trẻ từ 10 đến 16 tuổi đến khám tại phòng khám tâm thần nhi là 13,8%, dân số nghiên cứu có độ tuổi trung vị là 15 [13-15] tuổi, 72,1 là giới nữ, 86% sống ở thành thị, 67,4% có trình độ học vấn từ cấp 2 trở lên và 93% có học lực khá trở lên. Lý do nổi bật đưa bệnh nhân đến khám là cảm giác buồn (23,3%) và ý nghĩ tự sát (18,6%). Những biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất gồm khí sắc trầm (100%), giảm tập trung chú ý (86%), cảm giác vô dụng (83,6%). Bên cạnh đó, có hơn 60% trường hợp có ít nhất một biểu hiện liên quan đến ý tưởng tự sát và 69,8% có mức độ trầm cảm nặng dựa theo thang QIDS-A17-C. Không có đặc điểm dân số xã hội học nào được khảo sát có liên quan đến mức độ trầm cảm trên dân số nghiên cứu (p >0,05).
Kết luận: Trẻ vị thành niên mắc RLTCCY trong nghiên cứu ưu thế ở nữ giới, có trình độ học vấn cao với học lực từ khá giỏi trở lên. Bên cạnh đó, tỷ lệ khá cao về ý nghĩ tự sát trên trẻ vị thành niên cần được quan tâm đúng mức.
Từ khóa: rối loạn trầm cảm chủ yếu, trẻ vị thành niên, đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan
Background: Even though depression is one of the most common mental health problems and a high-ranking reason for disability and social burden among adolescents, little data related to the field has been reported in health facilities in Vietnam.
Objective: To determine the rate, clinical features among adolescents with major depressive disorder (MDD) and associated factors related to the severity of depression.
Methods: A cross-sectional study was conducted at the outpatient Pediatric Psychology and Psychiatry Department at the Mental Health Hospital in Ho Chi Minh City from March 2022 to May 2022 among 43 adolescents, aged 10 to 16 years old, who were diagnosed with MDD for the first time according to the DSM-5. The rate of MDD was calculated, and the associations between MDD and epidemiological features, including age, gender, place of residence, educational degrees, and learning capacity, were analyzed.
Results: The rate of depression among the patients aged 10 to 16 who visited the outpatient pediatric psychiatric department was 13.8%. The social-epidemiological features were the median age of 15 years old, with the interquartile range of 13 to 15; 72.1% being girls; 86% living in urban areas; 67.4% having completed secondary school and above; and 93% having average or higher learning capacity. The chief complaints bringing the patients to the hospital were sad mood (23.3%) and suicidal ideation (18.6%). The common symptoms were a sad mood (100%), a decrease in concentration (86%), and the feeling of being useless (83.6%). Additionally, well over 60% exhibited more than one sign related to suicidal ideation, and 69.8% experienced the severity degree based on QIDS-A17-C. There was no correlation between the epidemiological characteristics and the severity of depression (p >0.05).
Conclusion: In the study, adolescents with MDD were more likely to be female, have high educational degrees, and have a high learning capacity. Additionally, the rate of suicidal ideation among the targeted population should be considered and appropriately monitored.
Keywords: major depressive disorder, adolescents, clinical features, associated factors