Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 23(2):164. DOI
Lượt xem: 46 Lượt tải PDF: 0
Châu Ngọc Hoa*, Trần Kim Hoa**
Mở đầu: Điều trị dự phòng đột quỵ cũng như thuyên tắc hệ thống ở bệnh nhân rung nhĩ
bằng thuốc kháng đông đường uống mang lại lợi ích rõ rệt. Hiệu quả và tính an
toàn của việc điều trị kháng đông chỉ được đảm bảo khi bệnh nhân có kiến thức
và tuân thủ điều trị.
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, sự tuân thủ điều trị kháng đông đường uống ở bệnh nhân
rung nhĩ.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được
thực hiện trên 307 bệnh nhân rung nhĩ đang dùng kháng đông đường uống tại phòng
khám Nội Tim mạch – Bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 9/2017 đến tháng
4/2018. Thuốc kháng đông bao gồm kháng đông đối kháng vitamin K và kháng đông không
đối kháng vitamin K. Kiến thức về thuốc kháng đông đường uống được đánh giá dựa
trên bộ câu hỏi của tác giả Obamiro đã được chuyển ngữ và thích ứng văn hóa.
Tuân thủ được xác định bằng phương pháp đếm số viên thuốc còn lại.
Kết quả: Trên 307
bệnh nhân rung nhĩ có sử dụng thuốc kháng đông, tỉ lệ bệnh nhân có kiến thức đúng là 42% với
điểm số trung bình là 51,6 ± 17,9 (đánh giá theo bộ câu hỏi Obamiro). Tỉ lệ tuân thủ điều trị
kháng đông đường uống là 96,4%. Sau khi phân tích mối liên quan giữa các đặc điểm dân số,
kinh tế, xã hội, kiến thức với sự tuân thủ điều trị, tuổi và giới tính không có sự
liên quan với tuân thủ điều trị kháng đông đường uống. Tỉ lệ tuân thủ điều trị cao
hơn ở nhóm bệnh nhân có kiến thức về thuốc kháng đông đường uống (p = 0,03).
Kết luận: Tỉ lệ bệnh
nhân có kiến thức đúng về thuốc kháng đông đường uống còn thấp, bệnh nhân chưa
có kiến thức đúng chủ yếu liên quan đến các vấn đề về xử trí khi dùng quá liều thuốc, ngưỡng
INR, tương tác thuốc, thức ăn, rượu. Tỉ lệ bệnh nhân rung nhĩ tuân thủ điều trị kháng
đông đường uống cao và có liên quan với kiến thức đúng.
Từ khóa: kiến thức,
thuốc kháng đông đường uống, tuân thủ điều trị
Introduction: Oral anticoagulant
therapy is highly effective for stroke and systemic embolism prevention in
patients with atrial fibrillation. Good knowledge and high adherence are
essential to ensure both efficacy and safety with oral anticoagulant therapy.
Objectives: The aim of
this study was to investigate the level of knowledge, the proportion of
patients who have optimal adherence to oral anticoagulant therapy in patients with
atrial fibrillation.
Methods: A cross-sectional
survey was conducted in a sample of 307 patients with atrial fibrillation
taking oral anticoagulants in the cardiology clinic of Gia Đinh People
Hospital, from September 2017 to April 2018. Oral anticoagulants consist of
vitamin K antagonists (VKA) and non-vitamin K antagonist oral anticoagulants
(NOACs). Anticoagulation knowledge was evaluated by using the Anticoagulation
Knowledge Tool (AKT), developed and validated by Obamiro. The latter was
translated and culturally adapted into Vietnamese. Adherence to oral
anticoagulants was assessed by pill counts.
Results: Among 307
patients with atrial fibrillation taking oral anticoagulants, patients with
good knowledge accounted for 42% and the mean score on the AKT was 51.6 ± 17.9. Of the 307 patients with atrial fibrillation,
96,4% reported a high level of adherence to oral anticoagulants. After
analyzing the relationship between demographic, socio-economic factors,
knowledge and adherence, age and gender had no relation with adherence. Patients
with good anticoagulation knowledge had higher rate of adherence (p= 0.03).
Conclusions: Patients with
good anticoagulation knowledge had a limited rate. Factors with regard to
suboptimal knowledge in patient with atrial fibrillation included management of
taking too much drug, INR threshold, drug-drug interactions, diet, alcohol. The
rate of adherence to oral anticoagulants in patient with atrial fibrillation
was significantly high and had a good relationship with anticoagulation
knowledge.
Keywords: anticoagulation
knowledge, adherence, oral anticoagulants