Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 23(2):176. DOI
Lượt xem: 48 Lượt tải PDF: 1
Nguyễn Văn Tân*,**, Châu Văn Vinh**
Cơ sở: Bệnh cảnh lâm sàng của nhồi máu cơ tim cấp (NMCTC) thất
phải thường nặng và tiên lượng xấu khi có biến chứng tụt huyết áp, rối loạn nhịp
tim, choáng tim. Chiến lược điều trị tái tưới máu cho các bệnh nhân này phụ thuộc
nhiều vào đặc điểm tổn thương động mạch vành, bệnh cảnh lâm sàng, tình trạng bệnh
lý đi kèm.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm tổn thương động mạch vành ở bệnh nhân
cao tuổi NMCTC thất phải tại Bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả và cắt ngang trên 65 bệnh
nhân NMCTC thất phải nhập viện điều trị từ tháng 01/2013 đến tháng 12/2017 tại
khoa Tim Mạch Cấp cứu và Can thiệp của Bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh.
Kết quả: Bệnh mạch vành 3 nhánh trong mẫu nghiên cứu chiếm tỉ lệ
khá cao 43,1%, trong đó nhóm ≥ 65 tuổi có bệnh mạch vành 3 nhánh, bệnh mạch
vành 3 nhánh và thân chung vành trái cao hơn nhóm < 65 tuổi, với tỉ lệ lần
lượt theo thứ tự là 48,8%; 19,5% so với 33,3%; 12,5%; tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê, với p =0,364. Tổn thương đoạn gần nhánh RCA chiếm
cao nhất 64,6%, đoạn giữa chiếm 30,7%, trong đó nhóm <65 tuổi bị tổn thương
đoạn gần chiếm tỉ lệ cao hơn nhóm ≥ 65 tuổi (70,8% so với 61,0%), tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,14. Tổn thương típ B2 và C chiếm tỉ
lệ cao ở nhóm ≥65 tuổi hơn nhóm <65 tuổi (73,8%; 38,5% so với 40,0%; 10,7%,
với p =0,045). Có 84,6% nhánh thất phải bị tắc hoàn toàn, trong đó nhóm <65
tuổi chiếm tỉ lệ cao hơn nhóm ≥65 tuổi (87,5% so với 82,9%), tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thông kê giữa hai nhóm, với p =0,622.
Kết luận: Bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp thất phải cao tuổi có tỉ lệ
tổn thương mạch vành từ hai nhánh trở lên tương đối cao. Động mạch vành phải là
nhánh thủ phạm trong đa số các trường hợp, trong đó tắc nghẽn tại vị trí đoạn gần
và đoạn giữa rất thường gặp. Mức độ tổn thương động mạch vành hay gặp trên các
bệnh nhân cao tuổi nhồi máu cơ tim cấp thất phải là típ B2 và típ C.
Từ khóa: nhồi máu cơ tim cấp thất phải, tổn thương động mạch
vành, bệnh nhân cao tuổi
Objective: To investigate the characteristics of coronary lesion in elderly
patients with RVMI at Thong Nhat Hospital, Ho Chi Minh City.
Methods: A prospective, descriptive and cross-sectional study of 65 patients
with RVMI hospitalized between January 2013 and December 2017 at the Department
of Emergency and Interventional Cardiology of Thong Nhat Hospital, Ho Chi Minh
City.
Results: Triple vessel disease in the sample was 43.1%, in which group ≥ 65
years had triple vessel disease, triple vessel disease and left main coronary
artery disease were higher than group < 65 years with the rate of 48.8%,
19.5% versus 33.3%, 12.5%, respectively, but the difference was not
statistically significant, with p = 0.364. The proximal of right coronary
artery lesion was 64.6%, the middle segment 30.7%, in which the young group was
higher than the elderly group with 70.8% versus 61%, however, the difference
was not statistically significant with p =0.14. The prevalence of type B2 and C
lesions were high in the age group ≥ 65 years (73.8%, 38.5% versus 40.0%,
10.7%, p = 0.045). 84.6% of the right ventricular artery was completely
occlusion, of which the young group was higher than the elderly group (87.5%
versus 82.9%, p =0.622).
Conclusions: The elderly patients with acute RVMI had higher rates of coronary
artery disease from two or more branches. Right coronary artery disease was the
culprit lesion in most cases, with occlusion in the proximal and middle
segments of right coronary artery being very common. The coronary artery
lesions seen in elderly patients with acute RVMI were type B2 and C lesions.
Keywords: right ventricular myocardial infarction, coronary lesion, elderly
patients