Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 22(6):56. DOI
Lượt xem: 42 Lượt tải PDF: 0
Hà Văn Đến*, Quách Trọng Đức**
Đặt vấn đề: Carcinôm dạ dày là bệnh ác tính thường gặp và là
nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng thứ 3 ở Việt Nam. Mặc dù nội soi dạ dày
đã được triển khai rộng rãi, tỉ lệ phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm vẫn còn rất hạn
chế.
Mục tiêu: Xác định tần suất, các đặc điểm lâm sàng, nội
soi và mô bệnh học của các trường hợp carcinôm dạ dày giai đoạn tiến triển được
xác định chẩn đoán tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, có tiền sử từng được nội
soi dạ dày tại các cơ sở y tế trước đây nhưng chưa xác định được bệnh.
Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang
có phân tích trên các trường hợp carcinôm dạ dày tiến triển được chẩn đoán tại
bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM từ 2/2016 – 12/2016. Các bệnh nhân tham gia
nghiên cứu được hỏi triệu chứng cơ năng, tiền sử nội soi dạ dày tại các cơ sở y
tế trước đây. Tổn thương được đánh giá trên nội soi theo phân loại của Hội ung
thư dạ dày Nhật Bản và trên mô bệnh học theo phân loại Lauren.
Kết quả: Có 91/141 (64,5%) trường hợp carcinôm dạ dày giai
đoạn tiến triển đã từng được nội soi dạ dày trước đây với chẩn đoán không phải
là ung thư. Có 82/141 (58,2%) bệnh nhân có lần nội soi gần nhất tính tới thời
điểm được chẩn đoán xác định ≤ 2 năm và 9/141 (6,4%)ở thời điểm > 2 năm. Nhóm
bệnh nhân đã được nội soi ≤ 2 năm trước khi được chẩn đoán xác định có tuổi
trung bình 55,1 ± 12,9 (nhỏ nhất: 29, lớn nhất: 83, trung vị: 54). Tỉ lệ nam: nữ
là 1,5:1. Chỉ có 57/82 (69,5%) trường hợp có triệu chứng báo động. Số lần nội
soi trung vị trước khi được xác định chẩn đoán là 2. Trên nội soi, loét là dạng
tổn thương thường gặp nhất chiếm 43/82 (52,4%). Trên mô bệnh học, carcinôm dạng
lan tỏa chiếm đa số với 63/82 (76,8%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về mức độ lan rộng của tổn thương trên nội soi và týp mô bệnh giữa nhóm bệnh
nhân được nội soi ≤ 2 năm và nhóm bệnh nhân được nội soi xác định chẩn
đoán lần đầu.
Kết luận: Chẩn đoán carcinôm dạ dày giai đoạn tiến triển vẫn
là một thách thức lớn ở Việt Nam. Triệu chứng báo động có độ nhạy thấp. Phần lớn
bệnh nhân đã được tiếp cận và chấp thuận nội soi dạ dày nhưng chưa được phát hiện
bệnh sớm. Nghiên cứu này cho thấy cần cấp thiết cải tổ hệ thống đào tạo nội soi
chẩn đoán ung thư dạ dày, xây dựng
khuyến cáo về qui trình nội soi chẩn đoán ung thư và theo dõi tổn thương tiền
ung thư dạ dày.
Từ khóa: Ung thư dạ dày, carcinôm dạ dày, nội soi dạ dày.
Introduction: Gastric adenocarcinomais a commoncancer and the
thirdcause of mortalitydue to cancer in Vietnam.
Althoughgastroscopyhasbeenwidelyavailable, the rate of detectedearly gastric
cancer is stillverylow.
Objectives: To assess the rate and the characteristics of
interval gastric carcinoma with advanced endoscopic features.
Patientsand methods: This is a cross-sectionalstudyconductedatthe
UniversityMedicalCenter of Hochiminh City fromFebruary 2016 to December 2016.
Outpatients with advanced gastric carcinoma were recruited. The demographic
data, alarming features and priorhistoryof gastroscopy were recorded.
Endoscopic types of gastric carcinoma were classifiedaccording to the
Japaneseclassification of gastric cancer, and the pathologictypes were
classified according to the Lauren classification.
Results: There were 91 (64.5%) patients with interval
gastric cancer whohadadvancced endoscopic features. Previousgastroscopieswhich
non-cancerousconclusions had been performed in 82 (58.2%) patients
withintwoyears and 9 (6.4%) more than 2 years. Patients with previous
gastroscopy within 2 years had the meanage of 55.1 ± 12.9 (minimum: 29,
maximum: 83, median: 54), and the male-to-female ratio was 1.5:1. The rate of
alarm features was only 69.5% (57/82). The median number of prior gastroscopies
was 2. The most common endoscopic form of gastric carcinoma was ulcer (52.4%);
and the majority of lesions were diffusetype (76.8%). There were
neithersignificantdifference of type and extension of endoscopic lesions nor
pathologic type between this subgroup and the subgroup of patients without
prior gastroscopy.
Conclusion: Diagnosis of advanced gastric carcinoma is still a
big challenge in Vietnam. Alarm features areabsent in a significant proportion
of patients. Gastroscopy had been performed approximatelytwice in a majority of
patients with non-cancerous conclusions before the definite diagnosis. This
study raisesurgentneeds to reformthe currentgastrointestinal endoscopic trainingsystem,
to establishstandardprotocolfor gastroscopy examination and strategy for the
surveillance of precancerous gastric lesions.
Keywords: Gastric cancer, gastric carcinoma, interval
cancer, gastroscopy.