HO CHI MINH CITY JOURNAL OF MEDICINE
banner

Đặc điểm lâm sàng, điện cơ ký, men cơ và kháng thể của bệnh viêm cơ vô căn

CHARACTERISTICS OF CLINICAL SIGNS, ELECTROMYOGRAPHIC FINDINGS, MUSCLE ENZYMES, AND AUTOANTIBODIES IN IDIOPATHIC INFLAMMATORY MYOPATHIES

Tải

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 28(5):154-160. DOI 10.32895/hcjm.m.2025.05.20

Lượt xem: 38 Lượt tải PDF: 19

Tác giả

Lê Trí Sĩ1, Phan Hoàng Phương Khanh2, Phan Đặng Anh Thư3, Nguyễn Bá Thắng1,3, Nguyễn Lê Trung Hiếu1,3,*

1Khoa Thần kinh, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
2Bệnh viện Ngoại Thần kinh quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
3Khoa Y, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt

Mục tiêu: Bệnh viêm cơ vô căn là nhóm bệnh cơ do rối loạn miễn dịch, có thể tổn thương ngoài cơ như da, phổi, tim. Tại Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm sàng, điện cơ ký, men cơ và kháng thể theo các phân nhóm bệnh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả hàng loạt ca từ 01/2019–10/2022 tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và bệnh viện Ngoại Thần Kinh Quốc Tế. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo EULAR/ACR 2017. Phân tích số liệu bằng SPSS 26.

Kết quả: Tổng cộng 55 trường hợp, nữ chiếm 75%, tuổi trung bình 50,8. Phân nhóm chủ yếu: Viêm cơ hoại tử qua trung gian miễn dịch (56,4%), viêm da cơ (25,5%). Trung vị thời gian khởi phát là 6 tháng. Yếu cơ chủ yếu ở gốc chi. Sang thương da đặc hiệu hiện diện ở 67% ca viêm da cơ. Bệnh phổi mô kẽ gặp ở 27%, tử vong do bệnh lý này ghi nhận ở 2 ca. Men cơ tăng tùy theo nhóm và thời gian bệnh. Điện cơ ghi nhận bệnh cơ 100%, hoạt động tự phát ở 63,6%, nhiều nhất ở nhóm Viêm cơ hoại tử qua trung gian miễn dịch. Tỷ lệ dương tính kháng thể là 76%, anti-SRP chiếm cao nhất (27,9%).

Kết luận: Bệnh viêm cơ vô căn tại hai trung tâm trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là viêm cơ hoại tử qua trung gian miễn dịch và viêm da cơ, có đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng tương đồng y văn quốc tế. Điện cơ ký, CK máu và kháng thể đặc hiệu hỗ trợ chẩn đoán.

Từ khóa: viêm cơ vô căn; viêm da cơ; kháng thể viêm cơ; men cơ; điện cơ ký; kháng thể bệnh viêm cơ

Abstract

Objective: Idiopathic inflammatory myopathies (IIMs) are a group of immune-mediated muscle diseases that may involve extra-muscular organs such as the skin, lungs, and heart. In Vietnam, there is a lack of studies describing the clinical features, electromyographic findings, muscle enzyme levels, and antibody profiles across different subtypes of IIM.

Methods: A retrospective case series was conducted from January 2019 to October 2022 at the University Medical Center Ho Chi Minh City and the International Neurology Hospital. Diagnosis was based on the 2017 EULAR/ACR criteria. Data were analyzed using SPSS version 26.

Results: A total of 55 patients were enrolled; 75% were female, and the mean age was 50.8 years. The predominant subtypes were immune-mediated necrotizing myopathy (IMNM, 56.4%) and dermatomyositis (DM, 25.5%). The median duration of symptom onset was 6 months. Proximal muscle weakness was the most common presentation. Specific cutaneous lesions were found in 67% of DM cases. Interstitial lung disease (ILD) was observed in 27% of patients, with two ILD-related deaths. Muscle enzyme levels varied by disease subtype and disease duration. Electromyography showed myopathic changes in 100% of cases, with spontaneous activity observed in 63.6%, most frequently in the IMNM group. Myositis-specific autoantibodies were positive in 76% of patients, with anti-SRP being the most common (27.9%).

Conclusion: In Vietnam, the predominant subtypes of IIM are IMNM and DM, with clinical and paraclinical characteristics consistent with international literature. Electromyography, serum creatine kinase levels, and myositis-specific antibodies play supportive roles in diagnosis.

Keywords: idiopathic inflammatory myopathy; dermatomyositis; myositis-specific antibodies; muscle enzymes; electromyography; inflammatory myopathy antibodies